Đào tạo Nguồn nhân lực Y tế Chất lượng cao trong “Kỷ nguyên Vươn mình của Việt Nam” – Giải pháp Then chốt Tạo sự Đột phá trong Chăm sóc Sức khỏe Nhân dân
25/11/2025 16 lượt xemỦy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục & PTNL
Chủ tịch Hội đồng Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng
Trưởng Bộ môn Y hoc Giấc ngủ, Trường Đại học Y Dược, ĐHQG Hà Nội
Giáo sư Đại học Penn State – Mỹ & Giáo sư kiêm nhiệm Đại học Paris Cité – Pháp
Cựu Nội trú các Bệnh viện Bordeaux và Paris. Cựu Bác sĩ Trưởng Lâm sàng và
Thực hành Bệnh viện – Bệnh viện Cochin. Đại học Paris Descartes (2007-2017)
1. Bối cảnh và yêu cầu chiến lược
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, Đảng ta vừa mới ban hành hai Nghị quyết Trung ương có ý nghĩa đặc biệt đối với ngành y tế: Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá trong giáo dục – đào tạo và Nghị quyết 72-NQ/TW về tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân. Đây là hai trụ cột chiến lược, tạo hành lang chính sách để đổi mới toàn diện hệ thống đào tạo nhân lực y tế chất lượng cao, giúp nâng tầm đội ngũ thầy thuốc, chuyên gia và cán bộ y tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng (Nghị quyết 59-NQ/TW), chuyển đổi số và phát triển kinh tế tri thức (Nghị quyết 57-NQ/TW); định hướng và tạo sự đồng bộ cho các dự thảo Luật Giáo dục, Luật Giáo dục Đại học, Luật Giáo dục Nghề nghiệp, Luật Phòng bệnh và các Luật có liên quan đang được Quốc hội xem xét và thông qua.
Nghị quyết 71-NQ/TW được xem như là nền tảng tư tưởng chỉ đạo trong phát triển nhân lực trình độ cao, tạo nguồn nhân tài, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; nhấn mạnh yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với chuẩn năng lực quốc tế, xem nguồn nhân lực chất lượng cao là “động lực và lợi thế cạnh tranh cốt lõi của quốc gia”. Quan điểm chỉ đạo của
Nghị quyết 72-NQ/TW cũng nhấn mạnh đến sự tạo đột phá trong đào tạo đội ngũ cán bộ y
tế, chuẩn hóa năng lực, nâng cao y đức và cải thiện chế độ đãi ngộ, nhất là ở tuyến cơ sở,
tạo điều kiện và môi trường làm việc tốt nhất cho cán bộ y tế tại các tuyến; phát triển hệ thống y tế theo hướng hiện đại, công bằng, chất lượng và đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
Kết tinh tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW và 72-NQ/TW, hệ thống y tế Việt Nam cần một chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo hướng đồng bộ, tiên tiến và hiện đại, tiệm cận với mô hình đào tạo nguồn nhân lực y tế các nước tiên tiến, gắn liền với nhu cầu nguồn nhân lực quốc gia, phù hợp mô hình hệ thống chăm sóc sức khỏe 2 cấp sau cải cách hành chính.
2. Thực trạng nguồn nhân lực y tế hiện nay
2.1. Sự thiếu hụt và phân bố không đồng đều
Trong thời gian qua, hệ thống y tế Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng trong xây dựng một mạng lưới y tế trải đều các vùng miền đất nước, bảo đảm nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tuy nhiên thực tế hiện nay cho thấy, thực trạng phân bố nguồn nhân lực chất lượng cao và năng lực chuyên môn của nguồn nhân lực y tế vẫn còn có những vấn đề chiến lược cần được giải quyết một cách triệt để để tạo sự đột phá trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân theo tinh thần các Nghị quyết TW.
Tình trạng thiếu hụt nhân lực y tế chất lượng cao tại tuyến cơ sở diễn ra phổ biến, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa – nơi đảm nhiệm phần lớn gánh nặng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Trong khi đó, nguồn nhân lực y tế chất lượng cao như là bác sĩ chuyên khoa (CK1, CK2), điều dưỡng – kỹ thuật viên có chuyên môn cao lại tập trung chủ yếu ở các bệnh viện tuyến trung ương và các bệnh viện đa khoa tỉnh – thành phố; dẫn đến thiếu nguồn bệnh tuyến dưới nhưng lại quá tải tuyến trên, làm giảm hiệu quả phân tầng điều trị và gia tăng chi phí y tế cho hệ thống bảo hiểm và chi phí chăm sóc gián tiếp cho người bệnh và người nhà.
Bên cạnh đó, sự chênh lệch đáng kể về chuẩn năng lực chuyên môn của các bác sĩ giữa các vùng miền, giữa khu vực công và tư, cùng với điều kiện đào tạo và chuẩn năng lực nghề nghiệp không đồng đều trong hệ thống các trường đào tạo y tế, đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng khám chữa bệnh và hạn chế khả năng hội nhập chuyên môn quốc gia và quốc tế của đội ngũ nhân lực y tế. Thực trạng này đặt ra yêu cầu cấp bách phải tái cấu trúc, chuẩn hóa và cân đối nguồn nhân lực y tế trên phạm vi toàn quốc nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của hệ thống y tế trong giai đoạn mới.

GS.TSKH.BS Dương Quý Sỹ trân trọng cảm ơn Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị quán triệt – triển khai các Nghị quyết Trung ương về sự quan tâm của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ y tế (Hà Nội, ngày 16/9/2025).
2.2. Yêu cầu mới từ chuyển đổi mô hình hành chính
Việc tinh gọn hệ thống hành với 34 tỉnh – thành phố và triển khai thực hiện chính quyền hai cấp trong thời gian vừa qua, một bước cải cách có tính cấu trúc sâu rộng, đã tạo ra những áp lực mới và trực tiếp lên toàn bộ hệ thống y tế. Sự thay đổi này đòi hỏi phải phân tuyến lại nguồn lực theo quy mô tỉnh mới, đồng thời tái phân bổ nhiệm vụ chuyên môn giữa các tuyến nhằm bảo đảm tính liên tục, thống nhất và hiệu quả của công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Hệ thống y tế buộc phải thích ứng nhanh với mô hình quản trị mới, trong đó yêu cầu quan trọng nhất là chuẩn hóa và đồng bộ hóa nguồn nhân lực y tế chất lượng cao để bảo đảm khả năng phối hợp liên vùng và liên tuyến. Việc sáp nhập các đơn vị hành chính đồng nghĩa với việc phải xây dựng lại cơ chế điều hành, cơ chế giám sát và phương án tổ chức mạng lưới chăm sóc sức khỏe theo mô hình hai cấp (tỉnh và cơ sở), trong đó năng lực của đội ngũ nhân lực y tế đóng vai trò quyết định. Đây là thách thức lớn, nhưng cũng là cơ hội để tái cấu trúc hệ thống y tế theo hướng tinh gọn, hiện đại và hiệu quả hơn, phù hợp định hướng chiến lược của các Nghị quyết TW.
2.3. Chất lượng đào tạo y khoa còn nhiều bất cập
Bên cạnh những nỗ lực đổi mới trong thời gian qua, chất lượng đào tạo y khoa vẫn tồn tại nhiều hạn chế mang tính hệ thống, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực của đội ngũ nhân lực y tế chất lượng cao trong giai đoạn mới. Trước hết, đội ngũ giảng viên lâm sàng còn thiếu về số lượng và chưa đồng đều về trình độ, đặc biệt là thiếu giảng viên có năng lực chuyên sâu, khả năng giảng dạy lâm sàng theo chuẩn quốc tế và năng lực nghiên cứu khoa học. Điều này dẫn đến việc truyền thụ kỹ năng lâm sàng cho sinh viên chưa đạt chất lượng mong đợi. Bên cạnh đó, các bệnh viện – đặc biệt là tuyến trung ương – luôn trong tình trạng quá tải bệnh nhân, sinh viên y khoa đông, khiến khả năng tổ chức thực hành lâm sàng cho sinh viên của các trường nhóm ngành sức khỏe bị hạn chế. Sinh viên không có đủ thời gian tiếp cận bệnh nhân, không được thực hành đầy đủ và bài bản, làm giảm năng lực nghề nghiệp sau tốt nghiệp.
Một bất cập lớn khác là chuẩn đầu vào và chuẩn đầu ra chưa được thống nhất trên phạm vi toàn quốc, mỗi cơ sở đào tạo áp dụng bộ tiêu chuẩn riêng, dẫn đến chất lượng đào tạo không đồng đều và khó xây dựng khung năng lực quốc gia. Đồng thời, một số hình thức đào tạo chưa tương thích với khung trình độ quốc gia 8 bậc, gây khó khăn cho việc liên thông, công nhận văn bằng và kiểm định chất lượng. Bên cạnh đó, các sinh viên y khoa sau khi tốt nghiệp cần phải thực hành khám bệnh, chữa bệnh trở lại (không lương) 12 tháng tại các bệnh viện theo Nghị định 96/2023/NĐ-CP, để cấp giấy phép hành nghề khám bệnh, chữa bệnh; đây là mô hình không còn thấy tại các nước đào tạo y khoa tiên tiến. Theo chương trình của Bộ Y tế, trong thời gian sắp đến (01/01/2027), việc triển khai kỳ thi quốc gia bắt buộc đánh giá năng lực hành nghề khám bệnh, chữa bệnh là bắt buộc.
2.4. Chế độ đãi ngộ nguồn nhân lực y tế chất lượng cao chưa thỏa đáng
Một trong những nguyên nhân cốt lõi dẫn đến tình trạng thiếu hụt và dịch chuyển nguồn nhân lực y tế chất lượng cao từ tuyến cơ sở về trung ương, từ hệ thống công lập sang tư nhân chính là do thiếu chế độ đãi ngộ và chính sách thu hút. Bác sĩ hành nghề y vốn đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, thời gian đào tạo kéo dài, áp lực công việc nặng nề và thường xuyên đối diện các rủi ro nghề nghiệp. Tuy nhiên, thu nhập hiện tại của đội ngũ thầy thuốc chưa tương xứng với yêu cầu, trách nhiệm và mức độ cống hiến trong chăm sóc người bệnh. Do vậy nhiều bác sĩ, đặc biệt là những người có trình độ chuyên môn cao, không đủ động lực gắn bó lâu dài với hệ thống y tế công lập.
3. Định hướng cải cách chiến lược về đào tạo nhân lực y tế chất lượng cao
3.1. Xây dựng khung năng lực quốc gia về y khoa thống nhất toàn hệ thống
Việc xây dựng khung năng lực quốc gia về y khoa là nhiệm vụ trọng tâm và có ý nghĩa nền tảng trong tiến trình đổi mới đào tạo nhân lực y tế theo tinh thần Nghị quyết 71 và 72-NQ/TW. Khung năng lực cần phải được thiết kế một cách khoa học, toàn diện và phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm tạo ra hệ chuẩn chung cho toàn bộ hệ thống đào tạo – đánh giá – hành nghề y khoa của Việt Nam. Trên cơ sở đó, mọi cơ sở đào tạo nhân lực y tế, cơ quan quản lý và cơ sở y tế có thể vận hành thống nhất, liên thông, đồng bộ nguồn nhân lực y tế, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao.
Khung năng lực này phải đóng vai trò làm nền tảng chuẩn hóa toàn hệ thống, là cơ sở cho tất cả các khâu chủ chốt trong đào tạo và hành nghề, bao gồm: 1) tuyển sinh đầu vào một chuẩn thống nhất trên cả nước giúp bảo đảm tuyển chọn người học có phẩm chất, năng lực và động cơ nghề nghiệp tốt nhất với ngành y tế; 2) đánh giá đầu ra theo tiêu chí thống nhất để công nhận năng lực nghề nghiệp trước khi ra trường; 3) thi cấp chứng chỉ hành nghề bảo đảm mọi nhân lực y tế khi hành nghề đều đạt chuẩn năng lực quốc gia.
Việc xây dựng khung năng lực quốc gia không chỉ góp phần chuẩn hóa chất lượng nhân lực y tế, mà còn mở đường cho hội nhập khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của nhân lực y tế Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh tri thức sức khỏe ngày càng mạnh mẽ. Đây cũng là nền tảng quan trọng để thực hiện các kỳ thi năng lực quốc gia và các mô hình đào tạo hiện đại của các nước châu Âu và tiêu biểu nhất là Cộng hòa Pháp, qua đó tạo ra đội ngũ thầy thuốc tinh hoa, chuyên nghiệp và nòng cốt cho hệ thống y tế trong nhiều thập kỷ tới.
3.2. Đổi mới mô hình đào tạo bác sĩ y khoa theo hướng chất lượng cao và hội nhập
Đổi mới mô hình đào tạo y khoa là một yêu cầu cấp thiết và mang tính chiến lược nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực y tế chất lượng cao trong giai đoạn mới. Theo tinh thần Nghị quyết 71 và 72-NQ/TW, đào tạo y khoa không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức chuyên môn và kỷ năng thực hành, mà phải hướng đến hình thành đội ngũ thầy thuốc có tư duy hiện đại, năng lực chuyên sâu, phẩm chất nhân văn và khả năng hội nhập quốc tế. Trên cơ sở kinh nghiệm của các quốc gia có nền giáo dục y khoa phát triển và tương đồng với Việt Nam, đặc biệt là mô hình đào tạo bác sĩ của Cộng hòa Pháp (gọi tắt là Pháp) hiện nay có thể là hình mẫu trong đổi mới đào tạo bác sĩ tại Việt Nam, nhằm tạo sự đột phá trong nguồn nhân lực y tế chất lượng cao và hội nhập quốc tế.
3.2.1. Mô hình học 6 năm và thi bác sĩ nội trú quốc của Pháp
Một trong những định hướng cải cách quan trọng là xây dựng mô hình 6 năm đào tạo cơ bản kết hợp thi tuyển chương trình bác sĩ nội trú (BSNT) quốc gia, được xem như là chuẩn mực của nhiều nước có nền y học tiên tiến. Tại Pháp, vối truyền thống của một nền giáo dục y khoa lâu đời và là quốc gia đã đặt nền tảng xây dựng cơ sở đào tạo nguồn nhân lực y tế đầu tiên tại Việt Nam là Đại học Y Hà Nội vào năm 1902, do Bác sĩ Alexendre Yersin làm Hiệu trưởng. Do vậy mô hình đào tạo bác sĩ, bác sĩ nội trú của Việt Nam hầu như là tương đồng với chương trình đào tạo y khoa của Pháp.
Tại Pháp, các ứng viên sau tốt nghiệp trung học thi đầu vào học bác sĩ theo một đề thi và ngày thi thống nhất trên toàn quốc. Thi đậu học 6 năm và khi ra trường một số là bác sĩ đa khoa hành nghề bác sĩ tại các phòng khám tư như bác sĩ gia đình; đa số thi vào chương trình BSNT quốc gia; dựa vào kết quả xếp hạng thi đậu BSNT để chọn chuyên khoa với thời gian làm BSNT các bệnh viện trên cả nước Pháp là 3-4 năm tùy chuyên khoa. Tuy nhiên trong khoảng 5 năm qua, tất cả các sinh viên y khoa sau học 6 năm đều phải thi vào BSNT và tiếp tục thực hành khám chữa bệnh, trực bệnh viện, tại các bệnh viện. Do vậy trong năm 2024 toàn nước Pháp có hơn tám nghìn sinh viên sau học 6 năm thi và làm BSNT, năm 2025 là gần 10 nghìn BSNT; BSNT được trả lương trong suốt thời gian đào tạo và thực hiện nhiệm vụ khám chữa bệnh tại các bệnh viện toàn nước Pháp.
Hiện nay, do tình trạng thiếu hụt bác sĩ ở những vùng xa thành phố, chính phủ Pháp thực hiện chính sách phân công các bác sĩ sau khi tốt nghiệp BSNT về những nơi thiếu hụt bác sĩ. Do vậy, nguồn nhân lực bác sĩ tại Pháp đều có chuẩn năng lực đầu vào và chuẩn năng lực đầu ra tương đồng sau khi hoàn thành chương trình BSNT các bệnh viện và ra làm việc tại các cơ sở y tế công lập hay tư nhân. Tại Pháp sau đại học hiện nay chỉ có bằng thạc sĩ và tiến sĩ cho lĩnh vực nghiên cứu hàn lâm và bằng chuyên khoa cho các ngành chuyên sâu cho những bác sĩ muốn học thêm chuyên khoa khác; tại Pháp không có bằng bác sĩ chuyên khoa 1 hoặc chuyên khoa 2 như tại Việt Nam. Hàng năm các bệnh viện và trường đại học y khoa tại Pháp vẫn nhận 150 – 200 bác sĩ Việt Nam sang Pháp làm chức năng BSNT trong 1-2 năm (240 bác sĩ trong năm 2025).

GS.TSKH.BS Dương Quý Sỹ và Giám đốc Học thuật & Quan hệ Quốc tế Đại học Paris Cité – GS.TS. Victoire de Lastours – trao đổi về nội dung học tập của các sinh viên Pháp vừa mới thi vào BSNT Pháp hiện đang thực tập bệnh viện tại BVĐK Lâm Đồng và việc đổi mới chương trình đào tạo bác sĩ nội trú Pháp (Lâm Đồng, ngày 15/11/2025).
3.2.2. Mô hình đào tạo bác sĩ y khoa theo hướng một chuẩn chất lượng thống nhất cho Việt Nam
Việc thực hiện chương trình đào tạo y khoa vẫn tiếp tục duy trì như hiện nay, tuy nhiên cần phải thực hiện việc thi đầu vào theo một chuẩn thống nhất trên toàn quốc. Sau khi kết thúc 6 năm học, tất cả sinh viên phải tham dự kỳ thi BSNT quốc gia; kết quả xếp hạng của kỳ thi sẽ là căn cứ để phân ngành và lựa chọn các thí sinh vào chương trình BSNT quốc gia, một cơ chế tuyển chọn khách quan, minh bạch, bảo đảm phân luồng nhân lực theo năng lực thực chất và phù hợp với nhu cầu của hệ thống y tế. Trong quá trình đào tạo nội trú, Nhà nước giữ vai trò then chốt thông qua việc hỗ trợ học phí, chi trả lương và thực hiện phân công nhiệm sở sau tốt nghiệp theo quy hoạch nhân lực quốc gia, giúp bác sĩ nội trú toàn tâm học tập và phát triển chuyên môn.

GS.TSKH.BS Dương Quý Sỹ giảng dạy thực hành lâm sàng cho sinh viên y khoa Đại học Penn State – Mỹ & Paris Cité – Pháp tại BVĐK Lâm Đồng hàng năm (Lâm Đồng, tháng 7/2025).
Sau khi hoàn thành chương trình học và thực hành bệnh viện, BSNT được cấp Bằng Bác sĩ Nội trú và có Giấy phép hành nghề khám chữa bệnh. Có như vậy, bằng BSNT thể hiện trình độ cao nhất trong đào tạo lâm sàng y khoa và được xem như là nguồn nhân lực chất lượng cao của hệ thống y tế. Mô hình này không chỉ tạo dựng đội ngũ thầy thuốc tinh hoa, đạt chuẩn quốc gia và hội nhập quốc tế, mà còn khắc phục sự chênh lệch về chất lượng đào tạo giữa các cơ sở, góp phần nâng cao chất lượng toàn diện của hệ thống y tế Việt Nam và theo tinh thần của Nghị quyết 72-NQ/TW: “mọi người dân đều có thể tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng cao, được cung cấp bởi nguồn nhân lực chất lượng cao, nhằm tạo sự bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân”. Như vậy sẽ tránh được tình trạng số lượng BSNT hiện nay mỗi năm chỉ rất ít, học phải đóng tiền và làm việc không lương; khi học xong chỉ tập trung ở tuyến trung ương và quá trình thực hành bệnh viện chỉ tập trung tại các bệnh viện lớn, khả năng lâm sàng phụ thuộc nhiều vào các phương tiện cận lâm sàng hiện đại.

GS.TSKH.BS Dương Quý Sỹ trao chứng nhận năng lực y học giấc ngủ cơ bản cho sinh viên y khoa Đại học Penn State – Mỹ tại Trung tâm Đào tạo – NCKH Hội Y học Giấc ngủ Việt Nam (Phường Xuân Hương – Đà Lạt, Lâm Đồng).
3.2.3. Gắn đào tạo nhân lực y tế chất lượng cao với mô hình hệ thống y tế của chính quyền 2 cấp
Việc tái cấu trúc hệ thống hành chính từ 63 đơn vị hành chính xuống còn 34 đơn vị và thực hiện chính quyền 2 cấp đòi hỏi yêu cầu cấp thiết phải tổ chức lại mạng lưới y tế theo mô hình chính quyền 2 cấp – tuyến cơ sở và tuyến chuyên sâu. Để mô hình này vận hành hiệu quả, công tác đào tạo nhân lực y tế cần được thiết kế đồng bộ, gắn chặt với chức năng – nhiệm vụ của từng tuyến, bảo đảm sự phân tầng hợp lý, đội ngủ nhân lực y tế chất lượng cao phải được phủ đều trong hệ thống, liên thông và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Tại tuyến cơ sở, mục tiêu trọng tâm là hình thành đội ngũ thầy thuốc có năng lực toàn diện trong chăm sóc sức khỏe ban đầu. Do đó, cần tăng cường đào tạo BSNT chuyên ngành Y học gia đình, làm nòng cốt trong quản lý bệnh mạn tính tại cộng đồng, điều trị liên tục – dài hạn cho người bệnh và đóng vai trò “chiến sĩ áo trắng tuyến đầu” của hệ thống y tế. Đồng thời, chương trình đào tạo phải chú trọng năng lực quản lý bệnh mạn tính như tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế quản, rối loạn giấc ngủ – những bệnh chiếm tỷ lệ cao trong cộng đồng. Tuyến cơ sở cũng cần được trang bị đội ngũ có khả năng thực hiện cấp cứu và hồi sức ban đầu từ nguồn BSNT được phân bổ, bảo đảm người dân tiếp cận can thiệp sớm, giảm nguy cơ tử vong và rút ngắn thời gian chuyển tuyến.
Tại tuyến chuyên sâu, nhiệm vụ đào tạo tập trung vào việc phát triển đội ngũ BSNT chuyên sâu theo các chuyên ngành mũi nhọn, phù hợp với yêu cầu kỹ thuật cao của các bệnh viện tuyến cuối. Đây là nơi triển khai những kỹ thuật hiện đại như nội soi chẩn đoán – can thiệp, phẫu thuật ghép tạng, điều trị ung thư theo cơ chế sinh học phân tử, hồi sức cấp cứu tiên tiến và các kỹ thuật cao trong chẩn đoán hình ảnh hay tim mạch – hô hấp. Đào tạo tại tuyến chuyên sâu phải hướng đến việc tạo dựng đội ngũ thầy thuốc có trình độ chuyên môn vượt trội, làm chủ công nghệ cao, có khả năng nghiên cứu khoa học và dẫn dắt chuyên môn cho toàn hệ thống.
Việc gắn đào tạo nhân lực chất lượng cao thông qua đội ngũ BSNT quốc gia với mô hình hệ thống y tế 2 cấp không chỉ giúp phân bổ hợp lý nguồn lực mà còn tạo ra chuỗi cung ứng nhân lực y tế có cấu trúc “ hiện đại và bền vững – bình đẳng và nhân văn – an toàn và hiệu quả”, bảo đảm tính liên thông dọc giữa cơ sở và chuyên sâu. Đây là một trong những định hướng mang tính chiến lược, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe toàn dân và củng cố nền tảng hệ thống y tế Việt Nam trong giai đoạn mới, vì “một nước Việt Nam khỏe mạnh” theo quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm.
4. Kết luận
Phát triển nguồn nhân lực y tế chất lượng cao thông qua đào tạo không chỉ là yêu cầu cấ bách riêng của ngành y tế, mà là đòi hỏi mang tính chiến lược đối với cả hệ thống chính trị, góp phần vào sự trường tồn, thịnh vượng và vị thế của quốc gia. Đầu tư cho nhân lực y tế chính là đầu tư cho tương lai dân tộc, bảo đảm sức khỏe nhân dân, tăng cường nội lực quốc gia, và khẳng định vai trò của Việt Nam trong khu vực cũng như trên trường quốc tế trong chăm sóc sức khỏe. Trong bối cảnh mới hiện nay – với những thay đổi lớn về mô hình quản trị, cơ cấu dân số, gánh nặng bệnh tật và xu thế hội nhập – đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn hệ thống chính trị phải coi nhân lực y tế chất lượng cao là trọng tâm của mọi cải cách y tế, là trụ cột của hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện đại, công bằng, hiệu quả và bền vững.
Do vậy, để thực hiện thành công Nghị quyết 71-NQ/TW và 72-NQ/TW không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành y tế mà là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, đòi hỏi sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý quyết liệt của Nhà nước, sự đổi mới sáng tạo của các cơ sở đào tạo – bệnh viện – viện nghiên cứu, và sự đồng hành của đội ngũ thầy thuốc trên cả nước. Cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ và liên tục giữa các bộ, ngành, địa phương; đồng thời bảo đảm thể chế, nguồn lực và môi trường thuận lợi để nhân lực y tế phát triển toàn diện. Việc phát triển nhân lực y tế chất lượng cao thông qua đào tạo sẽ góp phần củng cố vững chắc hệ thống an ninh y tế quốc gia, nâng cao chất lượng dân số, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, và tạo tiền đề để Việt Nam đạt được vị thế tương xứng của một quốc gia phát triển trong những thập niên tới, phù hợp với mục tiêu của Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV ./.
———————————————
Tác giả: GS.TSKH.BS. Dương Quý Sỹ
Uỷ viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục & Phát triển Nhân lực
Chủ tịch Hội đồng Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng
Chủ tịch Hội Y học Giấc ngủ Viêt Nam
Người đăng: BS. Nguyễn Thị Bình
Hội Y học Giấc ngủ Việt Nam




















