Cấp bách tái cấu trúc, chuẩn hóa và cân đối nguồn nhân lực y tế trên phạm vi toàn quốc
25/11/2025 28 lượt xem(CLO) Hệ thống y tế Việt Nam cần một chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao theo hướng đồng bộ, tiên tiến và hiện đại, tiệm cận với mô hình đào tạo nguồn nhân lực y tế các nước tiên tiến, gắn liền với nhu cầu nguồn nhân lực quốc gia, phù hợp mô hình hệ thống chăm sóc sức khỏe 2 cấp sau cải cách hành chính.
Trao đổi với phóng viên Báo Nhà báo và Công luận, GS.TSKH.Dương Quý Sỹ, Ủy viên Hội đồng Quốc gia Giáo dục & Phát triển Nhân lực, GS Đại học Penn State – Mỹ & Giáo sư kiêm nhiệm Đại học Paris Cité – Pháp cho rằng, với những thay đổi lớn về mô hình quản trị chính quyền 2 cấp, cơ cấu dân số, gánh nặng bệnh tật và xu thế hội nhập đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn hệ thống chính trị phải coi nhân lực y tế chất lượng cao là trọng tâm của mọi cải cách y tế, là trụ cột của hệ thống chăm sóc sức khỏe hiện đại, công bằng, hiệu quả và bền vững.

GS Dương Quý Sỹ và Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị quán triệt, triển khai các Nghị quyết Trung ương.
+ GS đánh giá như thế nào về thực trạng nguồn nhân lực y tế hiện nay?
– Nguồn nhân lực y tế hiện nay đang đối mặt 3 thách thức lớn: thiếu hụt, phân bố mất cân đối; áp lực từ thay đổi mô hình hành chính; và những bất cập trong đào tạo – đãi ngộ.
Tình trạng thiếu nhân lực chất lượng cao tại tuyến cơ sở diễn ra phổ biến, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa – nơi gánh trách nhiệm chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân.
Trong khi đó, bác sĩ chuyên khoa, điều dưỡng – kỹ thuật viên trình độ cao lại tập trung chủ yếu tại tuyến trung ương và tỉnh, khiến tuyến dưới thiếu người còn tuyến trên quá tải. Sự chênh lệch về chuẩn năng lực giữa các vùng miền, giữa công – tư cùng chương trình đào tạo không đồng đều khiến chất lượng khám chữa bệnh thiếu thống nhất và hạn chế khả năng hội nhập chuyên môn.

Việc phát triển nhân lực y tế chất lượng cao thông qua đào tạo sẽ góp phần củng cố vững chắc hệ thống an ninh y tế quốc gia. Ảnh: Bộ Y tế
Cải cách hành chính theo mô hình chính quyền hai cấp và sáp nhập 34 tỉnh, thành tạo áp lực lớn lên hệ thống y tế. Việc phân tuyến lại nguồn lực, tái cấu trúc quản trị và xây dựng mạng lưới chăm sóc sức khỏe theo đơn vị hành chính mới đòi hỏi nguồn nhân lực y tế phải được chuẩn hóa, đồng bộ và đủ khả năng phối hợp liên vùng – liên tuyến. Đây vừa là thách thức vừa là cơ hội tái thiết hệ thống y tế theo hướng tinh gọn, hiện đại.
Trong đào tạo y khoa, nhiều hạn chế kéo dài ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nhân lực. Số lượng giảng viên lâm sàng thiếu, trình độ không đồng đều; bệnh viện tuyến trên quá tải khiến sinh viên không đủ điều kiện thực hành.
Chuẩn đầu vào – đầu ra giữa các trường thiếu thống nhất, chưa khớp với khung trình độ quốc gia; một số hình thức đào tạo chưa phù hợp chuẩn quốc tế. Ngoài ra, yêu cầu thực hành 12 tháng không lương để được cấp chứng chỉ hành nghề và kỳ thi quốc gia bắt buộc từ năm 2027 tạo thêm áp lực cho sinh viên.
Chế độ đãi ngộ thấp là nguyên nhân quan trọng khiến nhân lực y tế chất lượng cao dịch chuyển từ tuyến cơ sở lên tuyến trên và từ khu vực công sang tư.
Nghề y đòi hỏi đào tạo dài, cường độ làm việc cao và nhiều rủi ro, nhưng thu nhập không tương xứng khiến bác sĩ khó gắn bó lâu dài với hệ thống công lập.
+ Vậy Việt Nam nên có định hướng cải cách chiến lược gì trong đào tạo nhân lực y tế chất lượng cao hiện nay?
– Theo tôi, cần tập trung vào 3 điểm như sau:
Thứ nhất, xây dựng khung năng lực quốc gia về y khoa thống nhất toàn hệ thống: Khung năng lực quốc gia về y khoa là nhiệm vụ trọng tâm nhằm chuẩn hóa đào tạo và hành nghề theo tinh thần Nghị quyết 71 và 72-NQ/TW. Khung năng lực cần được thiết kế khoa học, toàn diện, tiệm cận quốc tế, tạo chuẩn chung cho tuyển sinh – đào tạo – đánh giá – cấp phép hành nghề. Trên nền tảng này, tất cả cơ sở đào tạo và cơ quan quản lý có thể vận hành thống nhất, bảo đảm liên thông và đồng bộ nguồn nhân lực y tế, nhất là nhân lực chất lượng cao.
Khung năng lực là căn cứ tuyển sinh thống nhất trên toàn quốc; đánh giá đầu ra theo chuẩn chung; và tổ chức thi cấp chứng chỉ hành nghề dựa trên năng lực thực. Việc xây dựng khung năng lực còn giúp Việt Nam hội nhập khu vực, nâng cao vị thế nhân lực y tế, đồng thời tạo cơ sở quan trọng để thực hiện kỳ thi năng lực quốc gia và các mô hình đào tạo hiện đại theo chuẩn châu Âu, đặc biệt là Cộng hòa Pháp.

GS Dương Quý Sỹ trao chứng nhận năng lực y học giấc ngủ cơ bản cho sinh viên y khoa Đại học Penn State – Mỹ tại Trung tâm Đào tạo – NCKH Hội Y học Giấc ngủ Việt Nam (Phường Xuân Hương – Đà Lạt, Lâm Đồng).
Thứ hai, đổi mới mô hình đào tạo bác sĩ đạt chuẩn chất lượng cao và hội nhập: Đào tạo y khoa cần chuyển mạnh từ truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực toàn diện: tư duy hiện đại, kỹ năng chuyên sâu, phẩm chất nhân văn và khả năng hội nhập quốc tế. Mô hình đào tạo bác sĩ của Pháp được xem là kinh nghiệm phù hợp để Việt Nam tham khảo nhằm tạo đột phá về nhân lực y tế chất lượng cao trong giai đoạn mới.
Thứ ba, gắn đào tạo nhân lực y tế với mô hình chính quyền 2 cấp: Việc tái cấu trúc hệ thống hành chính thành 34 đơn vị và vận hành chính quyền 2 cấp đòi hỏi tổ chức lại mạng lưới y tế theo hai tuyến: cơ sở và chuyên sâu. Tuyến cơ sở cần đội ngũ thầy thuốc có năng lực chăm sóc sức khỏe ban đầu, đặc biệt là nguồn bác sĩ nội trú (BSNT) Y học gia đình, đủ khả năng quản lý bệnh mạn tính, cấp cứu – hồi sức ban đầu và chăm sóc dài hạn cho cộng đồng.
Tuyến chuyên sâu tập trung đào tạo BSNT chuyên ngành mũi nhọn, làm chủ kỹ thuật cao như nội soi can thiệp, ghép tạng, điều trị ung thư sinh học phân tử, hồi sức cấp cứu tiên tiến… Đây là lực lượng nòng cốt dẫn dắt chuyên môn toàn hệ thống.
Gắn đào tạo BSNT quốc gia với mô hình 2 cấp sẽ tạo sự phân bổ hợp lý, liên thông dọc, hình thành chuỗi nhân lực “hiện đại – bền vững – nhân văn – hiệu quả”, góp phần xây dựng hệ thống y tế mạnh vì “một Việt Nam khỏe mạnh”.
+ Liệu có mô hình đào tạo bác sĩ y khoa nào thống nhất cho Việt Nam và kinh nghiệm của thế giới ra sao thưa giáo sư?
– Một định hướng cải cách quan trọng là tham khảo mô hình đào tạo bác sĩ của Pháp – quốc gia từng đặt nền móng cho giáo dục y khoa hiện đại tại Việt Nam.
Tại Pháp, sinh viên thi tuyển đầu vào bằng kỳ thi chung toàn quốc, sau đó học 6 năm cơ bản. Khi tốt nghiệp, một phần hành nghề bác sĩ đa khoa, nhưng đa số dự thi chương trình BSNT quốc gia. Kết quả xếp hạng quyết định chuyên khoa và nơi thực hành, với thời gian đào tạo 3–4 năm.
Trong khoảng 5 năm trở lại đây, mọi sinh viên đều phải thi BSNT, vì vậy mỗi năm Pháp có 8.000–10.000 BSNT được trả lương và trực tiếp tham gia khám chữa bệnh tại các bệnh viện.

Phát triển nguồn nhân lực y tế chất lượng cao thông qua đào tạo không chỉ là yêu cầu cấp bách riêng của ngành y tế, mà là đòi hỏi mang tính chiến lược đối với cả hệ thống chính trị. Ảnh: Đại Nam
Để khắc phục thiếu bác sĩ tại vùng xa, chính phủ Pháp phân công BSNT sau tốt nghiệp về những khu vực thiếu hụt. Nhờ đó, chuẩn đầu vào – đầu ra của bác sĩ trên toàn hệ thống luôn thống nhất. Sau đại học, Pháp chỉ đào tạo thạc sĩ – tiến sĩ cho nghiên cứu và bằng chuyên khoa cho nhu cầu chuyên sâu; không có hệ CKI, CKII như Việt Nam. Hằng năm, Pháp tiếp nhận khoảng 150–240 bác sĩ Việt Nam tham gia chương trình BSNT 1–2 năm.
Việt Nam có thể tiếp tục chương trình 6 năm nhưng cải cách theo hướng thống nhất chuẩn tuyển sinh toàn quốc và bắt buộc sinh viên thi BSNT quốc gia sau tốt nghiệp. Kết quả kỳ thi sẽ phân ngành, phân tuyến dựa trên năng lực thực chất.
Trong quá trình đào tạo nội trú, Nhà nước giữ vai trò chủ lực: hỗ trợ học phí, chi trả lương, đồng thời phân công nhiệm sở theo quy hoạch nhân lực y tế quốc gia, giúp BSNT yên tâm học tập và phát triển chuyên môn.
Khi hoàn thành chương trình, BSNT được cấp bằng Bác sĩ Nội trú và giấy phép hành nghề – trở thành đội ngũ bác sĩ có trình độ lâm sàng cao nhất. Mô hình này giúp tạo nguồn nhân lực tinh hoa, đạt chuẩn quốc gia – hội nhập quốc tế; khắc phục chênh lệch chất lượng giữa các cơ sở đào tạo; và đảm bảo mọi người dân được tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng cao theo tinh thần Nghị quyết 72-NQ/TW.
Quan trọng hơn, mô hình này giúp chấm dứt tình trạng BSNT phải tự đóng tiền, làm việc không lương và tập trung quá nhiều ở tuyến trung ương như hiện nay, đồng thời nâng cao chất lượng lâm sàng trên toàn hệ thống.
+ Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của giáo sư!
———————————————————
Tác giả: (Nguồn: Nhà báo & Công luận)




















