Khơi dậy “nguyên khí quốc gia”, kiến tạo “Việt Nam khỏe mạnh”
29/09/2025 492 lượt xemVSSM news – Hội nhập sâu không có nghĩa là hòa tan. Giáo dục và y tế Việt Nam cần giữ ba trụ giá trị: khai phóng để giải phóng tiềm năng, nhân bản để lấy con người làm trung tâm, phụng sự để mọi tri thức – công nghệ đều quy về lợi ích quốc gia và cộng đồng. Căn tính ấy đã làm nên sức bền của một nền giáo dục tinh hoa và một hệ thống y tế nhân văn. Đây chính là những thông điệp được GS.TSKH.BS Dương Quý Sỹ nhấn mạnh khi nói về tầm vóc lịch sử, vai trò và ý nghĩa của các Nghị quyết trung ương mang tính nền tảng, đột phá cho kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cho một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.
Trong lịch sử phát triển của mọi dân tộc, có những thời khắc mà ý chí chính trị, tầm nhìn chiến lược và năng lực thực thi giao thoa, mở ra một quỹ đạo mới cho tương lai. Với Việt Nam hôm nay, hai Nghị quyết Trung ương vừa ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (ngày 22/8/2025) và Nghị quyết số 72-NQ/TW về một số giải pháp đột phá tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân (ngày 9/9/2025) đang tạo nên thời khắc như vậy. Dưới tinh thần chỉ đạo nhất quán của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt triển khai các nghị quyết, trục phát triển “lấy con người làm trung tâm, lấy chất lượng và hiệu quả làm thước đo, lấy đổi mới sáng tạo làm động lực, lấy công bằng và nhân văn làm bản sắc” đã được xác lập rõ ràng, có địa chỉ trách nhiệm, có mục tiêu đo đếm được và có phương pháp thực thi.

GS.TSKH.BS Dương Quý Sỹ chia sẻ quan điểm về các Nghị quyết Trung ương với Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc quán triệt Nghị quyết Trung ương.
Từ góc nhìn của GS.TSKH.BS Dương Quý Sỹ, một nhà giáo, nhà khoa học và thầy thuốc – thông điệp cốt lõi của hai nghị quyết nằm ở chỗ: phát triển con người toàn diện phải đồng thời “khai phóng trí tuệ” và “bảo đảm sức khỏe”, phải song hành “giáo dục tinh hoa” và “y tế nhân văn”. Giáo dục tạo sinh lực trí tuệ cho quốc gia, y tế tạo nền năng lực để trí tuệ ấy được phát huy bền bỉ; một bên là nguồn, một bên là lực, thống nhất trong mục tiêu nâng tầm quốc gia vào năm 2045. Khi “nguyên khí quốc gia” được khơi dậy trong một xã hội khỏe mạnh, Việt Nam có thể rút ngắn khoảng cách, bước qua bẫy thu nhập trung bình, tiến vào nhóm quốc gia phát triển với những chuẩn mực mới về chất lượng nguồn nhân lực, khoa học công nghệ và phúc lợi. Nghị quyết 71 xác định đột phá giáo dục với tự chủ đi đôi trách nhiệm giải trình; Nghị quyết 72 chuyển trọng tâm hệ thống y tế từ chữa bệnh sang phòng bệnh, từ chăm sóc đơn lẻ sang quản lý sức khỏe theo vòng đời; đồng thời định vị tầm nhìn y tế hiện đại, công bằng, hiệu quả, bền vững đến 2045.
Vai trò và ý nghĩa của Nghị quyết 71 trước hết thể hiện ở việc tái định vị triết lý giáo dục của thời đại số: từ “dạy để biết” sang “dạy để làm, để đổi mới và để phụng sự”. Tự chủ không chỉ là quyền tự quyết tài chính mà là quyền thiết kế chương trình, chuẩn năng lực, tổ chức nhân sự, liên kết quốc tế và kết nối doanh nghiệp – nhưng mọi quyền ấy phải được ràng buộc bằng kiểm định độc lập, dữ liệu minh bạch, xếp hạng khách quan và chế tài nghiêm khắc. Ở tầm thực thi, điều quyết định thành bại là chính sách nhân tài: thu hút, trọng dụng, đãi ngộ và bảo vệ người tài như một cơ chế thường trực của hệ thống chứ không phải chiến dịch ngắn hạn. Như GS. Dương Quý Sỹ nhấn mạnh, “thành tựu cao nhất của tài năng là sản phẩm của tập thể”; vì thế, dùng người tài là xây dựng một hệ sinh thái biết tôn trọng khác biệt, chấp nhận rủi ro có kiểm soát và đánh giá theo giá trị đầu ra, không theo hình thức. Chính ở điểm này, Nghị quyết 71 mở ra một “cửa sổ cơ hội chưa từng có” cho ngành giáo dục để đại học trở thành hạt nhân tri thức mở, giáo dục nghề nghiệp trở thành bệ phóng lực lượng kỹ năng cao, và toàn xã hội trở thành một “quốc gia học tập”.
Nếu Nghị quyết 71 đánh thức trí tuệ, Nghị quyết 72 kiến tạo nền sức khỏe. Ý nghĩa đột phá của Nghị quyết 72 không chỉ là khẳng định “sức khỏe là vốn quý nhất” mà là chuyển dịch mô hình chăm sóc hướng phòng bệnh, quản lý sức khỏe theo vòng đời với y tế cơ sở làm nền tảng, bác sĩ gia đình làm then chốt, y tế dự phòng làm ưu tiên chiến lược; đồng thời xây dựng tài chính y tế công bằng, bền vững, giảm chi trả trực tiếp từ tiền túi và bảo vệ nhóm yếu thế. Trên bình diện công nghệ, Nghị quyết 72 đặt bài toán số hóa toàn diện: hồ sơ sức khỏe điện tử liên thông, bệnh án – đơn thuốc số, khám chữa bệnh từ xa, ứng dụng trí tuệ nhân tạo nhưng bảo đảm an ninh dữ liệu và đạo đức y khoa. Đây không chỉ là “nâng cấp kỹ thuật” mà là “cải cách mô hình” để hệ thống y tế Việt Nam hội nhập các chuẩn mực khu vực và quốc tế, qua đó đóng góp trực tiếp vào năng suất lao động quốc gia.

GS.TSKH.BS Dương Quý Sỹ đại diện cho Hội đồng Quốc gia Giáo dục và phát triển nhân lực đề xuất xây dựng một hệ thống y tế – giáo dục công bằng, nhân văn, hiện đại với Tổng Bí thư Tô Lâm.
Tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh yêu cầu “hành động, hành động và hành động” – thể chế hóa nhanh, tổ chức thực thi nghiêm, xác lập cơ chế giám sát – đánh giá dựa trên dữ liệu, đặt lợi ích người dân làm trung tâm. Tại Hội nghị toàn quốc ngày 16/9/2025, Tổng Bí thư khẳng định triển khai đồng bộ các nghị quyết của Bộ Chính trị sẽ bồi đắp thêm động lực mới, tạo xung lực mạnh để bứt phá, thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược. Đó là lời hiệu triệu đi thẳng vào “điểm mấu chốt của mọi điểm mấu chốt”: chuyển từ nhận thức sang năng lực, từ quyết tâm chính trị sang hiệu quả chính sách. Với giáo dục và y tế, nghĩa là chuyển từ tư duy “xin – cho” sang “đặt hàng – giải trình”, từ đo lường đầu vào sang đo lường đầu ra, từ hành chính hóa sang quản trị dựa trên bằng chứng.
Từ tầm nhìn đến thực tiễn, GS. Dương Quý Sỹ đề xuất bộ giải pháp hai lớp – “quán triệt – cụ thể hóa” và “thực thi – đo lường” – để các nghị quyết đi vào cuộc sống một cách sinh động, có kết quả. Lớp thứ nhất, “quán triệt – cụ thể hóa”, phải bắt đầu bằng pháp điển hóa tinh thần nghị quyết vào các đạo luật trụ cột: Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp; Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Bảo hiểm y tế và các nghị định hướng dẫn về tự chủ, đấu thầu, xã hội hóa, hợp tác – đầu tư quốc tế. Mọi nguyên tắc của tự chủ (học thuật, nhân sự, tài chính, hợp tác) cần được “đóng khung” bằng cơ chế kiểm định độc lập, bảng xếp hạng tối thiểu, công bố dữ liệu mở; mọi nguyên tắc của y tế số phải được “neo” bởi tiêu chuẩn kỹ thuật liên thông quốc gia, chế độ bảo mật – an ninh dữ liệu, cơ chế thử nghiệm có đạo đức đối với AI y tế. Nếu không “đóng khung” pháp lý, cỗ máy đổi mới sẽ rơi vào trạng thái “dùng chân đạp ga, tay kéo phanh”.
Lớp thứ hai, “thực thi – đo lường”, cần một kiến trúc tổ chức rõ ràng. Ở trung ương, Chính phủ thiết lập Ban chỉ đạo liên ngành cho từng nghị quyết, có Tổ công tác chuyên trách theo dõi các chỉ số, tháo gỡ vướng mắc theo cơ chế “một cửa – một việc – một đầu mối chịu trách nhiệm”. Ở địa phương, Chủ tịch UBND tỉnh chịu trách nhiệm trực tiếp về kết quả giáo dục – y tế trên địa bàn, với cơ chế “khoán sản phẩm chính sách”: tỉnh nào đạt chuẩn trường học an toàn – thông minh, hồ sơ học tập suốt đời hoạt động hiệu quả; tỉnh nào hoàn thành bao phủ hồ sơ sức khỏe điện tử, giảm chi trả trực tiếp y tế; tỉnh nào tạo được chuỗi liên kết đại học – bệnh viện – doanh nghiệp để vừa đào tạo, vừa nghiên cứu, vừa khám chữa bệnh thì tỉnh đó được xếp hạng cao, hưởng cơ chế thưởng – phạt ngân sách rành mạch. Như Tổng Bí thư đã nêu, phải biến mục tiêu thành chỉ tiêu, biến chỉ tiêu thành công việc, biến công việc thành kết quả có địa chỉ.
Trong giáo dục, tự chủ phải đi liền “đặt hàng theo kết quả”. Bộ, ngành và địa phương chuyển từ phân bổ bình quân sang hợp đồng đặt hàng đào tạo nhân lực và nhiệm vụ nghiên cứu với các cơ sở giáo dục; thanh toán dựa trên việc đạt chuẩn đầu ra, tỷ lệ sinh viên có việc làm chất lượng, sản phẩm nghiên cứu – sở hữu trí tuệ – chuyển giao công nghệ. Xếp hạng đại học nội địa liên thông với chuẩn khu vực và quốc tế; mỗi trường phải công bố “bảng điều khiển” dữ liệu cốt lõi: chuẩn đầu ra, tỷ lệ việc làm, công bố khoa học, kinh phí nghiên cứu trên giảng viên, mức độ quốc tế hóa, mức độ hài lòng của người học và doanh nghiệp. Trên bình diện nhân tài, thiết kế cơ chế đồng cơ hữu (co-appointment) để mời giáo sư đầu ngành trong – ngoài nước; cơ chế đặc cách bổ nhiệm ở vị trí mũi nhọn; quỹ học bổng – học hàm dành cho lĩnh vực trọng điểm (y sinh, AI, năng lượng xanh, môi trường). Những cơ chế ấy không chỉ “mời gọi” mà thực sự “giữ chân” người tài bằng vị thế nghề nghiệp, điều kiện sáng tạo và thước đo công bằng.
Trong y tế, thực thi Nghị quyết 72 cần một “tam giác chính sách”: tài chính y tế công bằng – nhân lực chất lượng cao – chuyển đổi số toàn diện. Về tài chính, tiến tới gói dịch vụ cơ bản miễn phí ở tuyến cơ sở, chi trả theo giá trị (value-based payment) thay vì số lượng, tái cấu trúc quỹ BHYT theo nguyên tắc bền vững và công bằng. Về nhân lực, chuẩn hóa đào tạo theo khung năng lực; hiện đại hóa mô phỏng lâm sàng; mở rộng đào tạo liên tục; có phụ cấp đặc thù và “vùng ưu tiên” cho y tế cơ sở, vùng khó khăn. Về số hóa, triển khai hồ sơ sức khỏe điện tử liên thông quốc gia; bệnh án – đơn thuốc số; khám, theo dõi bệnh mạn tính từ xa; AI hỗ trợ lâm sàng/điều phối; tất cả vận hành trên hạ tầng dữ liệu mở nhưng an toàn, có hội đồng đạo đức độc lập. Mỗi tỉnh tối thiểu có một trung tâm dữ liệu sức khỏe tích hợp; mỗi huyện hoàn thành “bộ chỉ tiêu sức khỏe vòng đời” để chủ động dự phòng. Điều đó không chỉ giúp “chữa bệnh tốt hơn” mà còn “ít phải chữa bệnh hơn” – mục tiêu công bằng, hiệu quả, bền vững đến năm 2045.
Cả hai nghị quyết đều coi đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ là “động cơ tăng áp”. Liên minh đại học – viện nghiên cứu – bệnh viện – doanh nghiệp phải trở thành tổ chức mặc định của hệ sinh thái đổi mới: chung phòng thí nghiệm liên ngành, chung trung tâm dữ liệu – AI y tế, chung vườn ươm khởi nghiệp, chung quỹ nghiên cứu – thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm. Cơ chế tài chính cho khoa học cần linh hoạt nhưng minh bạch: ngân sách theo kết quả, chia sẻ lợi ích sở hữu trí tuệ công bằng, thủ tục gọn nhẹ, giám sát chặt. Hội nhập “tại chỗ” là con đường đi tắt: thầy giỏi, bác sĩ giỏi, nhà khoa học giỏi đến Việt Nam giảng dạy – nghiên cứu; đồng hướng dẫn, đồng cơ hữu quốc tế; công nhận chuẩn nghề và học vị theo thông lệ. Khi “trí tuệ thế giới” gặp “bài toán Việt Nam”, chúng ta không chỉ học nhanh hơn mà còn giải bài toán đúng hơn.

GS.TSKH.BS Dương Quý Sỹ cùng các Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ thăm quan thành tựu nổi bật của ngành y tế – giáo dục tại nhà Quốc hội.
Để quán triệt sâu rộng, công tác tuyên truyền – truyền thông cần đổi mới từ “truyền đạt mệnh lệnh” sang “kể câu chuyện thay đổi”. Mỗi cơ sở giáo dục, mỗi bệnh viện phải có “bản đồ chuyển đổi” ở dạng dễ hiểu, cho người học, người bệnh, cán bộ và người dân theo dõi. Báo cáo định kỳ không dày thêm trang giấy mà dày thêm dữ liệu, so sánh và bài học. Cần những diễn đàn thường niên về “Giáo dục – Y tế – Sáng tạo” cấp vùng để chia sẻ mô hình tốt; các giải thưởng minh bạch tôn vinh đổi mới thực chất; các cam kết trách nhiệm được truyền hình trực tiếp để nâng cao niềm tin xã hội. Khi niềm tin được vun bồi bằng thông tin trung thực và kết quả cụ thể, nghị quyết sẽ đi vào đời sống như điều bình thường đúng đắn.
Cùng với tuyên truyền, giám sát xã hội là trụ cột không thể thiếu. Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, báo chí và cộng đồng chuyên gia cần đồng hành, giám sát độc lập các chỉ số đầu ra; bảo vệ người dám nghĩ, dám làm; phát hiện sớm lệch lạc trong thi đua – thành tích, ngăn chặn “thẩm mỹ số liệu”. Liêm chính học thuật và đạo đức nghề y phải được thể chế bằng các bộ quy tắc ứng xử, cơ chế tố cáo bảo mật, hội đồng độc lập truy cứu trách nhiệm khoa học – nghề nghiệp. Không có niềm tin thì không có đổi mới; không có kỷ luật thì không có niềm tin.
Trong tầm nhìn dài hạn, hai nghị quyết không đứng riêng rẽ mà tạo thành một “đường trục phát triển”: giáo dục tinh hoa – y tế nhân văn – xã hội học tập – quốc gia khỏe mạnh. Đường trục ấy gắn với lịch trình 2045, với các cột mốc đến 2030 về chỉ số sức khỏe, bao phủ dịch vụ thiết yếu, và chuẩn chất lượng giáo dục – y tế ngang tầm khu vực. Ở đó, mỗi trường học là một “trạm phát sáng tri thức”, mỗi trạm y tế là một “trạm gác an sinh”; mỗi nhà giáo là “kỹ sư tâm hồn” của kỷ nguyên số, mỗi thầy thuốc là “người bảo hộ năng lực” của quốc dân. Khi hai cánh tay giáo dục và y tế vững mạnh, thân thể quốc gia mới có thể vươn lên trọn vẹn.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói rõ tinh thần hành động: đặt lợi ích nhân dân làm trung tâm, biến quyết tâm chính trị thành năng lực thực thi, biến mục tiêu thành chỉ tiêu gắn trách nhiệm. GS. Dương Quý Sỹ diễn giải điều ấy trong ngôn ngữ của nghề nghiệp: mọi chính sách phải quy về “sức khỏe – tri thức – phẩm giá” của con người Việt Nam; mọi cải cách phải quy về “cơ hội học tập suốt đời – cơ hội chăm sóc sức khỏe công bằng”. Vì thế, phải dứt khoát từ bỏ tư duy xin-cho, nâng chuẩn nghề nghiệp, siết kỷ luật liêm chính và giải trình, giải phóng các điểm nghẽn về tài chính – nhân lực – dữ liệu. Đó là cách để “khơi dậy nguyên khí quốc gia” và “kiến tạo Việt Nam khỏe mạnh” không bằng khẩu hiệu mà bằng kết quả đo đếm được trên từng lớp học, từng buồng bệnh, từng khu công nghiệp, từng bản làng.
Con đường phía trước dĩ nhiên không bằng phẳng. Cải cách giáo dục sẽ chạm vào lợi ích cục bộ; y tế số sẽ va vào thói quen cũ; chính sách nhân tài sẽ va vào tâm lý “an toàn hóa tập thể”. Nhưng chính vì vậy mà hai nghị quyết mới trở thành “bài kiểm tra năng lực” của hệ thống: chúng ta có dám thay đổi để tốt hơn không, có dám chịu trách nhiệm vì lợi ích dài hạn không, có dám đặt người dân làm trung tâm thật sự không. Câu trả lời phải đến từ việc làm hôm nay: ký những hợp đồng đặt hàng đào tạo đầu tiên, mở những phòng khám từ xa đầu tiên, ban hành những cơ chế đồng cơ hữu đầu tiên, công bố những bảng điều khiển dữ liệu đầu tiên, khen thưởng những con người “làm được việc” đầu tiên và xử lý nghiêm những biểu hiện đối phó đầu tiên.


GS.TSKH.BS Dương Quý Sỹ trình bày tham luận trong phiên họp của Hội đồng Quốc gia Giáo dục và phát triển nhân lực ngày 22/9/2025
Chốt lại, vai trò và ý nghĩa của Nghị quyết 71 và Nghị quyết 72 là ở chỗ chúng định nghĩa lại “sức mạnh quốc gia” trong kỷ nguyên mới: sức mạnh ấy nằm ở con người – trí tuệ mở và thân thể khỏe mạnh; ở thể chế – tự chủ gắn giải trình, đổi mới gắn liêm chính; ở phương pháp – khoa học dữ liệu và quản trị theo giá trị; ở mục tiêu – công bằng và hạnh phúc. Đó cũng là điểm gặp giữa chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm với quan điểm của GS. Dương Quý Sỹ: đặt nhân tài đúng chỗ, bảo đảm sức khỏe nhân dân, tôn trọng dữ liệu – sự thật – kết quả, và kiên trì các giá trị khai phóng, nhân bản, phụng sự. Nếu chúng ta thắp lửa, giữ lửa và lan tỏa lửa nguyên khí bằng một hệ sinh thái biết khuyến khích và biết kỷ luật, Việt Nam hoàn toàn có thể đi nhanh hơn và xa hơn trên lộ trình 2045. Nghị quyết đã mở đường; phần còn lại thuộc về chúng ta – những người thầy, người thầy thuốc, nhà khoa học, doanh nhân, công chức và mỗi công dân – hôm nay và mỗi ngày.
Chương trình hành động 10 điểm: Khai phóng – Nhân bản – Phụng sự theo quan điểm của GS.TSKH.BS Dương quý Sỹ. Từ ý chí chính trị đến năng lực thực thi. 1. Luật hóa chính sách nhân tài: ban hành khung pháp lý thống nhất về thu hút – trọng dụng – đãi ngộ – bảo vệ nhân tài, áp dụng toàn quốc, ưu tiên giáo dục, KHCN, y sinh, năng lượng, môi trường. 2. Tự chủ thực chất – giải trình minh bạch: trao quyền đầy đủ cho đại học, cơ sở GDNN, bệnh viện đại học; kiểm định độc lập, xếp hạng công khai, dữ liệu mở. 3. Đặt hàng theo kết quả: chuyển từ phân bổ bình quân sang hợp đồng đặt hàng đào tạo – nghiên cứu – khám chữa bệnh gắn mục tiêu đầu ra. 4. Hệ sinh thái số giáo dục – y tế: hồ sơ học tập suốt đời và hồ sơ sức khỏe điện tử liên thông; nền tảng dữ liệu dùng chung an toàn; AI hỗ trợ quyết định. 5. Hội nhập tại chỗ: quỹ thu hút chuyên gia quốc tế; đồng cơ hữu công trình; chương trình song bằng; liên minh thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm. 6. Trung tâm mô phỏng & đổi mới: đầu tư trọng điểm mô phỏng lâm sàng, edtech, healthtech; vườn ươm trong trường – viện – bệnh viện. 7. Tài chính y tế công bằng: lộ trình miễn phí gói dịch vụ cơ bản tuyến cơ sở; thanh toán theo giá trị; bảo vệ nhóm yếu thế. 8. “Đặt hàng nhân tài” theo mũi nhọn: học bổng – học hàm đặc thù cho y sinh, vaccine – sinh phẩm, năng lượng xanh, công nghệ số, an ninh sức khỏe. 9. Liêm chính học thuật – an toàn học thuật: cơ chế chống gian lận, chống bè phái; bảo vệ người dám đổi mới; tôn vinh công bằng dựa trên đóng góp thực. 10. Lan tỏa “vạn hoa nhân tài”: mạng lưới mentoring quốc gia; câu lạc bộ nhân tài; ràng buộc trách nhiệm dẫn dắt thế hệ kế cận vào tiêu chí đánh giá. |
Tác giả: TS. Nguyễn Duy Thái
Tổng Thư ký Hội Y học giấc ngủ Việt Nam
Phó Trưởng Bộ môn Y học giấc ngủ, Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội.